Đặc tính Admiral (lớp tàu chiến-tuần dương)

Lớp Admiral lớn hơn đáng kể so với những chiếc tiền nhiệm thuộc lớp Renown. Chúng có chiều dài chung 262 m (860 ft), mạn thuyền rộng 31,7 m (104 ft), và mớn nước 9,6 m (31 ft 6 in) khi đầy tải. Nó dài hơn 33,5 m (110 ft) và rộng hơn 4,3 m (14 ft) so với những chiếc lớp trước. Chúng có trọng lượng rẽ nước 41.200 tấn tiêu chuẩn và 45.620 tấn khi đầy tải, nặng hơn trên 13.000 tấn so với lớp trước. Chúng có một chiều cao khuynh tâm 1,4 m (4 ft 7 in) khi đầy tải cũng như một đáy tàu hai lớp toàn bộ.[13]

Động lực

Những chiếc trong lớp Admiral có bốn động cơ turbine hơi nước Brown-Curtis với hộp số giảm cấp một tầng, mỗi chiếc dẫn động một trục chân vịt, và được bố trí trong ba phòng động cơ. Phòng động cơ phía trước chứa hai turbine cho các trục chân vịt hai bên cánh, phòng động cơ giữa có một turbine cho trục chân vịt giữa bên mạn trái, còn turbine của phòng động cơ phía sau dẫn động trục chân vịt giữa bên mạn phải. Một turbine đi đường trường được cấu tạo vào giữa vách của mỗi turbine bên cánh. Các turbine được cung cấp hơi nước bởi 24 nồi hơi ống nước nhỏ Yarrow được phân chia đồng đều giữa bốn phòng nồi hơi.[14] Chúng được thiết kế để có được công suất tổng cộng 144.000 mã lực (107,4 MW) ở áp lực vận hành 1.620 kPa (235 psi), nhưng nó đã đạt đến hơn 151.000 mã lực (112,6 MW) trong quá trình Hood chạy thử máy, khi nó vượt hơn đội chút so với tốc độ thiết kế 57,4 km/h (31 knot).[15]

Chúng được thiết kế để có thể mang theo một cách bình thường 1.200 tấn dầu đốt, nhưng có thể mang tối đa đến 4.000 tấn.[16] Ở dung lượng tối đa, Hood có thể đi đường trường ở tốc độ 26 km/h (14 knot) một khoảng cách ước lượng 14.000 km (7.500 hải lý). Chúng có tám máy phát điện công suất 175 kW, gồm hai chiếc chạy bằng động cơ diesel, hai chiếc turbine và bốn chiếc chạy bằng động cơ chuyển động qua lại.[17]

Vũ khí

Những chiếc trong lớp Admiral được trang bị tám khẩu pháo chính BL 381 m (15 inch) Mk I bố trí trên bốn tháp súng Mark II nòng đôi vận hành bằng thủy lực, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' theo thứ tự từ trước ra sau. Các khẩu pháo có thể hạ xuống tối đa đến −3° và nâng lên tối đa đến 30°; chúng có thể nạp đạn ở bất kỳ góc nào cho đến 20°, cho dù việc nạp đạn ở góc cao có xu hướng làm chậm tốc độ bắn. Các con tàu mang theo 120 quả đạn pháo cho mỗi khẩu. Chúng bắn ra đầu đạn pháo nặng 871 kg (1.920 lb) ở lưu tốc đầu đạn tối đa 752 m/s (2.467 ft/s); cho phép đạt được tầm xa tối đa 26,5 km (29.000 yard) đối với loại đạn pháo xuyên thép (AP, armour-piercing).[18]

Dàn hỏa lực hạng hai của chúng bao gồm mười sáu khẩu hải pháo BL 140 mm (5,5 inch) Mk I, đặt trên tháp pháo xoay trên sàn tháp chỉ huy phía trước và được bảo vệ bởi giáp chắn. Chúng được cung cấp 200 quả đạn pháo cho mỗi khẩu.[19] Các khẩu súng trên bệ có thể nâng tối đa lên một góc 30°. Chúng bắn ra đầu đạn pháo nặng 37,2 kg (82 lb) ở lưu tốc đầu đạn tối đa 850 m/s (2.790 ft/s), đạt được tầm xa tối đa 16,2 km (17.700 yard) ở góc nâng 30°, và một tốc độ bắn tối đa 12 đạn pháo mỗi phút.[20]

Lớp Admiral được thiết kế để trang bị bốn súng phòng không QF 102 mm (4 inch) Mark V. Chúng có thể hạ xuống tối đa đến -5° và nâng lên tối đa đến 80°. Chúng bắn ra đầu đạn nổ công suất mạnh (HE, high explovise) nặng 14 kg (31 lb) với lưu tốc đầu đạn 728 m/s (2.387 ft/s) ở tốc độ bắn tối đa 10 đến 15 phát mỗi phút. Các khẩu pháo này có trần bắn đối đa 28,3 km (31.000 ft), cho dù tầm bắn hiệu quả ít hơn nhiều.[21]

Hai ống phóng ngư lôi nạp bên cạnh 533 mm (21 inch) ngầm dưới nước được trang bị phía trước tháp pháo 'A', cùng tám ống phóng nạp bên cạnh trên mặt nước Mark V ở sàn tàu trên ngang hàng với ống khói sau được dự tính để trang bị, cho dù cuối cùng chỉ có bốn chiếc kiểu sau được gắn trên chiếc Hood. Chúng được nạp và vận hành bằng thủy lực; các ống ngầm được phóng bằng khí nén trong những ống trên mặt nước sử dụng các liều thuốc phóng cordite. Con tàu mang theo 32 đầu đạn chứa trong hai kho chứa phía trước hầm đạn của tháp pháo chính 'A'. Hood mang theo ngư lôi kiểu Mark IV và Mark IV*, mỗi quả mang một đầu đạn chứa 233,6 kg (515 lb) TNT.[22] Chúng có thể vận hành ở ba mức tốc độ, vốn sẽ khống chế tầm xa hoạt động tương ứng: từ 7,3 km (8.000 yard) ở tốc độ 64,8 km/h (35 knot), 9,1 km (10.000 yard) ở tốc độ 53,7 km/h (29 knot) và 12,3 km (13.500 yard) ở tốc độ 46,3 km/h (25 knot).[23]

Kiểm soát hỏa lực

Các khẩu pháo chính của lớp Admiral được điều khiển bởi hai bộ kiểm soát hỏa lực. Bộ điều khiển chính được gắn bên trên tháp điều khiển trong một nắp bọc thép và chiếc kia gắn bên cột ăn-ten phía trước.[24] Tháp pháo 'B' có thể kiểm soát tất cả các tháp pháo chính trong khi tháp pháo 'X' kiểm soát các tháp pháo phía sau.[25] Thông tin đến từ một máy đo tầm xa rộng 9 m (30 ft) bố trí trong một nắp bọc thép được nạp vào một Bảng kiểm soát hỏa lực Dreyer Mk V đặt trong trạm truyền tin[26] dưới sàn tàu[27] nơi chúng được chuyển thành những thông tin về tầm xa và góc lệch sử dụng bởi các khẩu pháo. Thông tin định vị về mục tiêu còn được ghi lên một bản vẽ nhằm hỗ trợ cho sĩ quan tác xạ trong việc dự đoán sự di chuyển của mục tiêu. Bộ điều khiển trên cột ăn-ten phía trước được trang bị một máy đo tầm xa rộng 4,5 m (15 ft).[24] Mỗi tháp súng còn được cung cấp một máy đo tầm xa 9 m (30 ft) đặt trong vỏ bọc thép trên nóc tháp súng và một máy tính tương tự Dumaresq để kiểm soát hỏa lực tại chỗ.[28]

Dàn pháo hạng hai chủ yếu được điều khiển bởi những bộ kiểm soát hỏa lực 140 mm (5,5 inch) gắn trên hai bên của cầu tàu. Chúng được bổ túc bởi hai vị trí kiểm soát hỏa lực bổ sung đặt trên cột ăn-ten trước, được cung cấp các máy đo tầm xa 2,7 m (9 ft). Mỗi chiếc trên các vị trí này được trang bị một máy tính Dumaresq để kiểm soát tại chỗ, nhưng thông tin định vị thường được chuyển đến trạm truyền tin 140 mm (5,5 inch) ở sàn tàu bên dưới theo cách tương tự như đối với dàn pháo chính, ngoại trừ việc thông tin hỏa lực được tính toán bởi hai máy tính tương tự dạng đồng hồ kiểm soát hỏa lực Kiểu F.[25] Các khẩu pháo phòng không được kiểm soát bởi một máy đo tầm xa 2 m (6 ft) bố trí trên cấu trúc thượng tầng phía sau.[24]

Dàn ngư lôi thoạt tiên cũng có một hệ thống kiểm soát hỏa lực tương tự với nhiều máy đo tầm xa, đặc biệt là một máy đo tầm xa 4,5 m (15 ft) đặt bên trên tháp chỉ huy ngư lôi phía sau, cung cấp thông tin định vị đến một bảng Dreyer đặt trong trạm truyền tin ngư lôi cạnh bên trạm truyền tin 140 mm (5,5 inch) ở sàn tàu bên dưới. Tuy nhiên bảng Dreyer này bị tháo bỏ khi Hood được tái trang bị trong những năm 19291931 và việc tính toán được thực hiện tại vị trí kiểm soát ngư lôi trên cầu tàu.[25]

Vỏ giáp

Đai giáp ở mực nước của lớp Admiral có độ dày 305 mm (12 inch), được đặt nghiêng ở một góc 12° hướng ra phía ngoài một phần để giữ cho đai giáp bên trong cấu trúc bầu và cho phép sức ép của vụ nổ ngư lôi được hướng ra ngoài không khí. Sự bố trí một góc nghiêng giúp làm gia tăng độ dày tương đối của vỏ giáp đối với hỏa lực bắn ngang ở tầm gần, dù phải đánh đổi làm giảm đi độ dày tương đối làm tăng nguy cơ đạn pháo bắn tới đi bên trên hoặc bên dưới. Đai nghiêng này làm cho vỏ giáp của nó so sánh được với đai giáp dày 330 mm (13 inch) tìm thấy trên những chiếc dreadnought Anh Quốc mới nhất. Nó kéo dài khoảng 171 m (562 ft), từ mép trước của tháp pháo 'A' đến giữa tháp pháo 'Y'. Phía trước phần này đai giáp mỏng đi còn 152 mm (6 inch) trước khi giảm hơn nữa còn 127 mm (5 inch) và kết thúc bằng một vách ngăn dày 127 mm (5 inch) cách không xa mũi tàu. Từ giữa phía sau tàu đai giáp giảm độ dày còn 152 mm (6 inch); nó không đi đến tận đuôi tàu nhưng kết thúc ở một vách ngăn dày 127 mm (5 inch). Đai giáp này có chiều cao 2,9 m (9 ft 6 in), trong đó 1,2 m (4 ft) ở bên dưới mực nước theo thiết kế. Bên trên nó là một đai giáp giữa dày 178 mm (7 inch) và cao 2,1 m (7 ft), kéo dài giữa tháp pháo 'A' và 'Y', tận cùng bằng những vách ngăn ngang dày 102 mm (4 inch) ở mỗi đầu. Và cuối cùng là một đai giáp trên dày 127 mm (5 inch) cao 2,7 m (9 ft), chỉ đi từ tháp pháo 'A' đến nơi kết thúc các khoang động cơ rồi kết thúc cũng bởi những vách ngăn ngang khác dày 102 mm (4 inch). Năm sàn tàu của chiếc Hood được bọc giáp với độ dày thay đổi trong khoảng 19–76 mm (0,75-3 inch), chỗ dày nhất là bên trên hầm đạn và bánh lái.[29] Ngay bên cạnh các tháp pháo 'A' và 'Y' sàn tàu chính có lớp giáp dày 127 mm (5 inch) để bảo vệ hầm đạn.[16]

Mặt trước của tháp pháo có vỏ giáp dày 381 mm (15 inch) trong khi các mặt bên có độ dày trong khoảng 279–305 mm (11-12 inch), và nóc dày 127 mm (5 inch). Bệ tháp pháo có độ dày vỏ giáp tối đa 305 mm (12 inch), nhưng được giảm bớt độ dày ở các tầng bên dưới sàn tàu, cho dù độ dày của các bệ tháp pháo 'A' và 'Y' dày hơn đôi chút ở bên dưới các sàn tàu so với các tháp pháo khác. Vỏ giáp bảo vệ tháp chỉ huy dày 229–305 mm (9-12 inch), và đó là lớp giáp dày nhất từng được trang bị cho một tàu chiến chủ lực Anh Quốc với trọng lượng lên đến 600 tấn.[24] Bộ điều khiển hỏa lực chính đặt bên trên tháp chỉ huy được bảo vệ bởi một vỏ bọc giáp. Mặt trước của nó dày 152 mm (6 inch), mặt hông dày 51 mm (2 inch) và nóc của nó được bảo vệ bởi giáp dày 76 mm (3 inch). Một ống liên lạc có độ dày bên hông 152 mm (6 inch) chạy từ tháp điều khiển xuống vị trí điều khiển bên dưới trên sàn tàu chính. Ba vách ngăn ngư lôi có độ dày 38 mm (1,5 inch), 25 mm (1 inch) và 19 mm (0,75 inch).[16]

Bầu chống ngư lôi của lớp tàu chiến-tuần dương Admiral là kiểu đầu tiên được trang bị trên một tàu chiến chủ lực Anh Quốc, được tích hợp đầy đủ những bài học có được từ một loạt các thử nghiệm đã tiến hành từ trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng bao gồm một khoảng trống bên ngoài, một khoảng nổi bên trong và một vách ngăn bảo vệ dày 38 mm (1,5 inch). Khoảng trống nổi này được chất đầy những ống sắt ngắn hàn kín được dự tính nhằm phân tán lực của một vụ nổ càng rộng càng tốt cũng như hấp thu chúng càng nhiều càng tốt.[30] Tuy nhiên, những thử nghiệm được thực hiện sau khi chiếc Hood đã hoàn tất cho thấy việc đổ đầy nước vào các khoảng trống nổi này cũng có hiệu quả tương đương mà lại rẻ hơn đáng kể.[31]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Admiral (lớp tàu chiến-tuần dương) http://www.hmshood.com/history/construct/design.ht... http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_15-42_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_4-45_mk5.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_55-50_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WTBR_PreWWII.htm //www.worldcat.org/oclc/38581302 //www.worldcat.org/oclc/5991550 https://archive.org/details/hoodbismarck0000mear https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:HMS_Ho...